Nguyễn Minh Tuấn Đại tướng
Giới tính : Tuổi : 32 Tham gia : 21/02/2011 Bài viết : 1723 Số tiền : 3510 Được like : 231 School : HCM University of law Ngành : Luật học Học lớp: : Hình sự 34A TÀI SẢN Huân chương:
| Tiêu đề: Góp ý sửa đổi BLTTHS: Mở rộng hơn quyền bào chữa... Sat Jun 22, 2013 10:41 am | |
| Góp ý sửa đổi BLTTHS: Mở rộng hơn quyền bào chữa... Tiếp tục ghi nhận ý kiến góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, chúng tôi đã trao đổi với TS-luật sư Phan Trung Hoài xung quanh chế định luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự. 24-02-2009 22:35:38 GMT +7 VI TRẦN Theo ông Hoài, từ thời điểm có Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đến nay, chúng ta đã có những bước tiến dài trong hoạt động tranh tụng, phù hợp với tiến trình hội nhập của đất nước, phù hợp với việc mở rộng dân chủ, quyền con người trong tố tụng của Đảng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều điều cần hoàn thiện, trong đó có chế định về luật sư.
Thủ tục phải đơn giản hơn
. Thưa ông, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã nâng cao hơn vai trò của người bào chữa nhưng đến nay, nhiều luật sư vẫn kêu ca rằng bị làm khó ngay từ khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận?
+ Trong tố tụng hình sự thì giai đoạn điều tra ban đầu rất quan trọng vì những lời khai lúc này thường là cơ sở cho việc buộc tội hay gỡ tội về sau. Chúng ta hình dung rằng một nghi can lần đầu bị tạm giữ hoặc tạm giam, tâm trạng của họ rất bất an, không ổn định. Lúc này họ rất cần có luật sư bên cạnh để giúp đỡ, tránh để khai sai sự thật. Vì thế, luật quy định cho luật sư vào từ giai đoạn này.
Thế nhưng thực tế hành nghề chúng tôi luôn vấp phải khó khăn ngay từ thủ tục đầu tiên vì nhiều lý do nhưng chủ yếu là do luật chưa quy định rõ cần bao nhiêu loại giấy tờ cho thủ tục này. Bởi thế, có nơi sẵn sàng cấp giấy chứng nhận qua bưu điện khi thấy luật sư đủ điều kiện nhưng nhiều cơ quan tố tụng lại yêu cầu luật sư phải cung cấp cả hợp đồng dịch vụ pháp lý, hóa đơn tài chính phát hành cho khoản thù lao của luật sư và nhiều giấy tờ không liên quan. Ngoài ra, cũng vì luật chưa quy định cụ thể nên các cơ quan tố tụng lúng túng khi phải xem xét cấp giấy chứng nhận cho “người đại diện hợp pháp” của đương sự hay “bào chữa viên nhân dân”.
Khi sửa BLTTHS, chúng ta cần đưa hẳn các quy định này vào để áp dụng thống nhất theo hướng đơn giản hơn. Cụ thể, với các nghi can bị bắt giữ khi phạm tội quả tang, khẩn cấp hoặc ngoài giờ hành chính thì luật sư chỉ cần xuất trình yêu cầu của gia đình và thẻ luật sư, các thủ tục còn lại hoàn tất sau. Trường hợp thân nhân hoặc nghi can không biết một luật sư nào, không biết về quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa thì cơ quan điều tra cần lập biên bản giải thích quyền cơ bản này của bị can. Đồng thời, cơ quan điều tra cũng có một danh sách các luật sư thuộc địa phương sở tại để cho nghi can lựa chọn. Chỉ khi có mặt luật sư hoặc nghi can từ chối luật sư thì điều tra viên mới được phép lấy lời khai của họ.
Tranh tụng ngay từ khi điều tra
. Ở giai đoạn điều tra, luật quy định luật sư muốn hỏi gì bị can thì phải được điều tra viên đồng ý. Như vậy, việc có mặt của luật sư trong các buổi hỏi cung phải chăng chỉ là hình thức, thưa ông?
+ Việc này có hai tình huống: Bị can khai sai sự thật hoặc dò ý của luật sư trước khi trả lời. Dĩ nhiên luật sư sẽ không đáp ứng nhưng không chỉ luật sư “khổ” mà điều tra viên cũng mệt mỏi. Tình huống khác là luật sư không được điều tra viên thông báo trước lịch làm việc nên bị động. Vô hình trung việc có mặt và chữ ký của luật sư tại các buổi hỏi cung chỉ mang tính hình thức.
Để khắc phục, tôi cho rằng luật cần chi tiết theo hướng điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa điểm, lịch trình làm việc dự kiến với bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo với luật sư, những nguyên tắc và điều cấm tại buổi hỏi cung; trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra. Khi tham gia hỏi cung, ngoài việc hỏi bị can với sự đồng ý của điều tra viên, luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung...
Cạnh đó, nên bổ sung vào luật là sau khi kết thúc điều tra, luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố tụng. Những trao đổi giữa luật sư với bị can không được coi là chứng cứ chống lại họ, trừ trường hợp liên quan đến một tội phạm đang xảy ra hoặc được dự tính sẽ xảy ra. Đưa các nội dung này vào luật, quyền bào chữa và tranh tụng càng chất lượng hơn chứ không hề gây khó cho cơ quan điều tra.
. Ông có nghĩ luật sư cần phải được tiếp cận nhiều hơn vào vụ án từ giai đoạn điều tra?
+ Đúng là luật đang bỏ lửng các quy định về quyền tiếp cận các hoạt động điều tra liên quan đến thân chủ như giám định, khám nghiệm hiện trường, bán tài sản bị thu giữ...
Theo tôi, khi sửa BLTTHS nên quy định theo hướng: Luật sư được thông báo việc trưng cầu và kết quả giám định (thương tật, thiệt hại tài sản, vật chứng)...; được mời tham gia chứng kiến khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra (trong các vụ giết người, cố ý gây thương tích). Luật sư cũng phải được thông báo thành phần và kết quả giám định pháp y (nguyên nhân chết người, tình trạng tâm thần, tỷ lệ thương tật, tiếng nói, chữ ký, chữ viết)...; được thông báo và tham gia chứng kiến việc bán đấu giá, kê biên, niêm phong tài sản.
Pháp luật nên quy định cơ quan, tổ chức, người có trách nhiệm và cá nhân có nghĩa vụ chấp thuận, cung cấp các bằng chứng, tài liệu cần thiết theo yêu cầu hợp pháp, chính đáng của luật sư. Minh định quyền, nghĩa vụ của các cơ quan tố tụng khi sắp xếp đưa vào hồ sơ toàn bộ hệ thống các chứng cứ mà công an và luật sư thu thập, tránh tình trạng bỏ sót những chứng cứ có lợi cho việc chứng minh nghi can vô tội.
. Xin cảm ơn ông!
BLTTHS năm 2003 có quy định về “bào chữa viên nhân dân”. Thực tế, rất ít người biết thế nào là “bào chữa viên nhân dân” và cũng chưa có ai làm cả.
Ông Hoài cho rằng nên xem lại quy định trên. Theo ông, chế định “bào chữa viên nhân dân” là sản phẩm đặc thù chỉ riêng có ở Việt Nam, được đặt ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt. Lúc đó chưa có điều kiện thành lập tổ chức luật sư nên Bác Hồ đã ký Sắc lệnh số 69 ngày 18-6-1949 quy định về chế định “bào chữa viên nhân dân”, cho phép nghi can được người khác bảo vệ trước tòa. Điều này phù hợp với lịch sử.
Khi đất nước thống nhất, nhiều nơi đã thành lập tổ chức “bào chữa viên nhân dân” nhưng đã được thay thế. Đến năm 2003, BLTTHS cho phép Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền cử “bào chữa viên nhân dân” bảo vệ cho nghi can là thành viên tổ chức mình. Quy định này chủ yếu là sự ghi nhận từ các yếu tố lịch sử. Thực tế, việc quản lý danh sách “bào chữa viên nhân dân” thế nào, tiêu chuẩn và cơ chế cử ra sao cũng như các hồ sơ, thủ tục liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận cho họ đều không rõ nên rất khó cho cơ quan tố tụng khi xem xét.
Theo phapluattp | |
|